Phê phán quan điểm cho rằng đất nước rơi vào thế yếu, lạc hầu đều do sự lãnh đạo của Đảng 

Phê phán quan điểm cho rằng đất nước rơi vào thế yếu, lạc hầu đều do sự lãnh đạo của Đảng

Thứ tư - 23/03/2022 14:07
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có những khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
Đảng ta cũng luôn thẳng thắn nhìn rõ sai lầm, khuyết điểm để sửa chữa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhìn lại quá trình cách mạng từ năm 1930 đến năm 2010 và thẳng thắn thừa nhận: “Trong lãnh đạo, Đảng có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm, có nhưng sai lầm, khuyết điểm nghiêm trọng do giáo điều, chủ quan, duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên” (Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI) và thực tế Cách mạng Việt nam đã khẳng định được sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời vào ngày 03-02-1930, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử cách mạng nước ta. Đảng đã lãnh đạo Nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: (1) thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; (2) thắng lợi của các cuộc kháng chiến chống xâm lược, mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước; (3) thắng lợi của công cuộc đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, tiếp tục đưa đất nước từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã trải qua 36 năm và giành được những thành tựu to lớn. Kinh tế vĩ mô ổn định, tốc độ tăng trưởng khá cao (giai đoạn 2016-2020 tăng trưởng bình quân khoảng 6%/năm). Quy mô và tiềm lực nền kinh tế được nâng lên (năm 2010 GDP đạt 115,93 tỷ USD, năm 2015 đạt 193,24 tỷ USD, năm 2020 đạt 271,2 tỷ USD. Bình quân thu nhập đầu người tăng nhanh (năm 1945 là 35 USD, năm 1975 là 80 USD, năm 1985 là 159 USD, năm 1990 là 182 USD, năm 2020 là 2.786 USD). Năng suất lao động giai đoạn 2011-2025 tăng bình quân 4,5%/năm; giai đoạn 2016-2020 tăng bình quân 5,8%/năm. Năng lực cạnh tranh toàn cầu của Việt Nam xếp thứ 67/141 nền kinh tế (năm 2019). Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng rất nhanh (năm 1945 đạt 4,2 triệu USD, năm 1975 đạt 914,2 triệu USD, năm 1990 đạt 5.156,4 triệu USD, năm 2020 đạt trên 560 tỷ USD)
Hệ thống kết cấu hạ tầng được tập trung xây dựng đồng bộ với một số công trình hiện đại. Nhiều công trình dự án giao thông quan trọng được tập trung đầu tư, xây dựng. Hạ tầng năng lượng được đầu tư tăng thêm, nhiều công trình lớn đã hoàn thành, đáp ứng yêu cầu phát triển và đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia. Hạ tầng thông tin và truyền thông phát triển nhanh, khá hiện đại, rộng khắp đến trên 98% người dân với công nghệ hiện đại, tốc độ kết nối internet trung bình đạt 9,5Mb/s, xếp hạng 58 thế giới (năm 2018). Xây dựng cơ sở dữ liệu lớn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế số, xã hội số. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 35,7% (năm 2015) lên gần 40% (năm 2020).
Hội nhập kinh tế phát triển sâu, rộng, trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Nhiều hiệp định thương mại song phương, đa phương thế hệ mới được ký kết. Xuất nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư  nước ngoài tăng mạnh (năm 2019 thu hút được 33.921 dự án đầu tư nước ngoài).
Hệ thống giáo dục và đào tạo phát triển rộng khắp cả nước, tới mọi vùng, kể cả vùng sâu, vùng xa, với cơ cấu hoàn chỉnh từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học, trên đại học, với cơ sở vật chất ngày càng khang trang hơn. Cả nước đã đạt chuẩn phổ cập cho trẻ mầm non 5 tuổi; duy trì vững chắc kết quả phổ cập giáo dục tiểu học, trung học cơ sở và xóa mù chữ. Đời sống văn hóa tinh thần của Nhân dân ngày càng phong phú, có chất lượng tốt hơn. Chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo được nâng lên. Dân số và chất lượng dân số cũng ngày được nâng lên. Dân số năm 1945 là 22,3 triệu người, năm 1975 là 47,6 triệu người, năm 1990 là 66 triệu người, năm 2020 là 97,5 triệu người. Tuổi thọ trung bình năm 2020 đã đạt 73,7 tuổi. Chỉ số phát triển con người (HDI) được nâng lên rõ rệt và hiện thuộc nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình cao của thế giới. Lực lượng lao động, chất lượng nguồn nhân lực đều có sự cải thiện đáng kể. Năm 1975, cả nước có 21,3 triệu lao động, đến nay có trên 55 triệu lao động. Tỷ lệ lao động qua đào tạo tặng từ 40% (2010) lên 60% (2020).
Tiềm lực khoa học-công nghệ quốc gia được tăng cường. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam liên tục được cải thiện, từ vị trí thứ 59 (2016) lên vị trí thứ 42 (2020) trên 131 quốc gia và nền kinh tế. Nguồn nhân lực khoa học và công nghệ có bước phát triển. Hiện nay, cả nước có trên 170 nghìn cán bộ khoa học và công nghệ tham gia vào hoạt động nghiên cứu và phát triển, làm việc trong các tổ chức khoa học và công nghệ nhà nước (84,1%), khu vực ngoài nhà nước (13,8%) và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (2,1%). Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ ngày càng mở rộng. Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ hợp tác về khoa học và công nghệ với hơn 70 quốc gia, vùng lãnh thổ; là thành viên của hơn 100 tổ chức quốc tế và khu vực về khoa học và công nghệ.
Chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt được những thành tựu nổi bật. Số quốc gia thiết lập quan hệ ngoại giao tăng nhanh: có 90 quốc gia (1975), 112 quốc gia (1985), 118 quốc gia (1990), 189 quốc gia (đến nay). Có quan hệ đối tác chiến lược và đối tác toàn diện với 33 nước đối tác quan trọng. Việt Nam đã tham gia hiệu quả vào các định chế khu vực, toàn cầu, nhất là FTA thế hệ mới và đóng góp tích cực ở hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, đảm nhiệm thành công niều trọng trách, ghi đậm dấu ấn với bạn bè khu vực và quốc tế…
Có thể khẳng định rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Tuy nhiên, đất nước ta vẫn đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức cần kiên quyết khắc phục để phát triển nhanh và bền vững. Nhưng không phải Việt Nam rơi vào thế yếu, bị động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.


Ngô Đức Hải

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

Văn bản mới

TÀI LIỆU

HN tổng kết báo chí năm 2024; trao giải Búa liềm vàng tỉnh lần thứ IV

Lượt xem:169 | lượt tải:166

TÀI LIỆU

phục vụ HN tổng kết công tác Tuyên giáo năm 2024

Lượt xem:691 | lượt tải:202

KL.103.TW

“về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 30-NQ/TW, ngày 12-3-2014 của Bộ Chính trị về tiếp tục sắp xếp, đổi mới và phát triển, nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty nông, lâm nghiệp”

Lượt xem:173 | lượt tải:261

CV.1500.TU

Triệu tập HN trực tuyến quán triệt, triển khai tổng kết việc thực hiện Nghị quyết 18-NQ/TW; báo cáo tình hình KTXH năm 2024 và tháo gỡ những điểm nghẽn, nút thắt về thể chế

Lượt xem:1278 | lượt tải:288

TÀI LIỆU

phục vụ giao ban báo chí tháng 11-2024

Lượt xem:295 | lượt tải:158

CV.2759.BTGTU

về định hướng triển khai Giải Búa liềm vàng của Đảng bộ tỉnh lần thứ V-năm 2025.

Lượt xem:309 | lượt tải:205

KH.175.TU

tuyên truyền đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng

Lượt xem:374 | lượt tải:301
 
pxyk2025
 
bao chi
bacho 2
truongsa

sls
Đăng nhập
Hãy đăng nhập tài khoản để sử dụng tài liệu Báo cáo viên
Thống kê
  • Đang truy cập94
  • Máy chủ tìm kiếm1
  • Khách viếng thăm93
  • Hôm nay11,728
  • Tháng hiện tại228,718
  • Tổng lượt truy cập35,785,968
Thăm dò ý kiến

Bạn có thường xuyên truy cập trang web này không?

Thăm dò ý kiến

Theo bạn trang web có cần bổ sung, điều chỉnh nội dung gì không?

TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY KON TUM
Giấy phép số: 01/GP-TTĐT, ngày 25 tháng 9 năm 2024
Chịu trách nhiệm: ông Nguyễn Trung Hải, Ủy viên Ban Thường vụ, Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Địa chỉ: 67 Bà Triệu, P. Thắng Lợi, Tp. Kon Tum
SĐT: 0260.3862301     Fax: 0260.3865464
Email: bantuyengiaotinhuykt@gmail.com
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây