Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Kon Tum

https://www.tuyengiaokontum.org.vn


Vai trò của V.I.Lênin trong việc phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học

Nếu Mác và Ph.Ăngghen là người có công sáng lập CNXH khoa học, biến CNXH từ không tưởng thành khoa học, thì V.I.Lênin là người có công lớn biến CNXH từ lý luận thành thực tiễn.
Ảnh minh họa
Thời Ph.Ăngghen còn sống (trước 1895), Quốc tế II – Quốc tế xã hội chủ nghĩa (XHCN) hoạt động rất hiệu quả, đã thúc đẩy phong trào công nhân ở nhiều nước phát triển, đấu tranh chống lại những biểu hiện cơ hội trong phong trào công nhân. Nhưng sau năm 1895, khi Ph.Ăngghen mất, Quốc tế II phân biệt sâu sắc thành Quốc tế hai rưỡi với nhiều phe phái: phái hữu do Becstanh đứng đầu công khai phản đối lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học (CNXHKH), phái tả do Lênin đứng đầu bảo vệ, ủng hộ - phát triển CNXHKH. Tình hình đó yêu cầu đặt ra cần bảo vệ phát triển CNXHKH.
Mặt khác vào thời Lênin, chủ nghĩa tư bản (CNTB) đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc, tình hình thực tế đặt ra những yêu cầu nhiệm vụ mới mà lý luận CNXHKH do Mác – Ăngghen sáng lập chưa có lời giải đáp. Và một yêu cầu có tính nguyên tắc như Mác-Ăngghen đã từng khẳng định: học thuyết của các ông là học thuyết mở nó cần vận dụng cho phù hợp tình hình mới và cần được bổ sung phát triển…
Xuất phát từ những lý do đó CNXHKH cần được bảo vệ, bổ sung và phát triển. Và Vladimir Ilyich Lênin đã đảm nhận vai trò ấy một cách xuất sắc – gắn liền với giai đoạn đặc sắc nổi bật của những sự kiện của cách mạng nước Nga và thế giới, chẳng hạn như: Quốc tế II bị phân liệt và mất dần vai trò lãnh đạo phong trào công nhân Quốc tế (năm 1914 giải tán), Đảng Bônsêvích (Đảng Cộng sản) Nga thành lập (1903) tổng kết cách mạng năm 1905 và cách mạng Tháng 02-1917; tổng kết cách mạng tháng Mười 1917 – cuộc cách mạng biến CNXH từ lý luận trở thành hiện thực. Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) được thành lập vào ngày 04/3/1919, bọn cơ hội tấn công điên loạn vào chủ nghĩa Mác.
Trên cơ sở nền tảng lý luận Mác-Ăngghen đã chỉ ra trong các tác phẩm Tuyên ngôn Đảng Cộng sản, đấu tranh giai cấp ở Pháp… Điều kiện chủ quan để cách mạng vô sản thành công phải có Đảng cách mạng của giai cấp công nhân. Trên cơ sở đó, Lênin tập trung xây dựng Đảng Cách mạng của GCCN, lý luận Đảng kiểu mới này là hiện thân của sự kết hợp giữa: lý luận CNXHKH + phong trào công nhân = Đảng Cộng sản.
Vladimir Ilyich Lênin đã bảo vệ phát triển lý luận cách mạng dân chủ, tư tưởng cách mạng không ngừng vào thực tiễn nước Nga. Năm 1861 Nga Hoàng tuyên bố bãi bỏ chế độ nông nô nhưng vẫn giữ những đặc quyền đặc lợi riêng nên mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ quý tộc phong kiễn vẫn còn sâu sắc. Bên cạnh đó CNTB đã tồn tại, phát triển ở Nga nên mâu thuẫn giữa GCCN với GCTS cũng rất sâu sắc. Các lực lượng đế quốc và phong kiến kết hợp nhau làm cho nước Nga vừa là nước phong kiến-đế quốc-quân phiệt. Vấn đề đặt ra là giải quyết mâu thuẫn đó nước Nga phải làm gì? Có quan điểm làm cách mạng dân chủ để cho CNTB phát triển ở Nga, có quan điểm cho rằng làm ngay cách mạng XHCN. Lênin phê phán cả hai quan điểm và cho rằng: trước tiên phải làm cách mạng dân chủ vì nông dân – đa số chưa có quyền lợi chưa có quyền dân chủ, nhưng đây là cách mạng dân chủ kiểu mới nghĩa là do giai cấp công nhân lãnh đạo, động lực của cách mạng là quần chúng công nông. Thiết lập dân chủ chuẩn bị tiền đề làm cách mạng không ngừng chuyển lên cách mạng XHCN.
Qua chuẩn bị tiến hành cách mạng tháng 10/1917 với tác phẩm Nhà nước và Cách mạng, Lênin đã làm sống lại những quan điểm của Mác – Ăngghen về nhà nước. Ông phân tích kỹ quan điểm đập tan nhà nước tư sản – bộ máy ăn bám – thiết lập Nhà nước vô sản. Phân tích sâu sắc chủ nghĩa đế quốc, Lênin rút ra kết luận quan trọng: cách mạng xã hội chủ nghĩa có thể giành thắng lợi ở những nước kinh tế còn yếu, những nước tư bản trung bình. Dựa trên quy luật phát triển không đều của CNTB, tấn cống vào sợi xích yếu nhất qua đó cách mạng XHCN giành thắng lợi .
Tháng 10 năm 1917, cách mạng XHCN đầu tiên trên thế giới nổ ra và thành công, CNXH từ lý luận trở thành hiện thực. Lênin lại bước vào giai đoạn mới bảo vệ, phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học – Giai đoạn sau Cách mạng Tháng 10 – 1917 ông đã tổng kết kinh nghiệm cách mạng, cuộc tổng kết có ý nghĩa to lớn của phong trào cộng sản thế kỷ XX giống như Mác tổng kết Công xã Paris – phong trào cộng sản đặc sắc thế kỷ XIX. Qua đó, Lênin nêu lên ý nghĩa cách mạng Tháng 10 ngoài việc cổ vũ nhân dân toàn thế giới nó còn chỉ ra những bước căn bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ông nêu rõ cần tiến hành công nghiệp hóa đất nước, cải tạo nông nghiệp theo hướng CNXH, giải quyết vấn đề công-nông không thông qua chính sách đoàn kết, nêu gương, tiến hành cách mạng văn hóa. “người cộng sản phải biết làm giàu trí tuệ của mình trên cơ sở tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” (trong Nhiệm vụ đoàn thanh niên).
Tiếp tục đấu tranh bảo vệ sự trong sáng của CNXH khoa học. Sau Cách mạng tháng 10, phong trào cộng sản đang lên mạnh mẽ, khí thế bừng bừng trong phong trào xuất hiện khuynh hướng “ấu trĩ tả khuynh” nhất là ở các Đảng cộng sản Anh – Đức – Hà Lan gây ảnh hưởng tai hại phong trào làm cho Đảng Cộng sản có nguy cơ xa rời quần chúng, Lênin chỉ rõ đó là khí thế “lửa rơm” (bệnh ấu trĩ tả khuynh). Khi cách mạng cao trào từ bùng nổ, cháy nhanh như rơm; khi cách mạng thoái trào thì rên rỉ, không giữ được lửa.
Tháng 7-1920 sơ thảo Luận cương vấn đề dân tộc và thuộc địa được Lênin trình bày tại Đại hội II – Quốc tế cộng sản, nêu lên mối quan hệ giữa cách mạng xã hội chủ nghĩa ở chính quốc và thuộc địa.
Lênin tiếp tục bảo vệ CNXH khoa học giai đoạn sau nội chiến. Ông nhìn nhận xem xét lại và gạt bỏ những luận điểm thiếu sót chưa phù hợp như: CNXH không có sản xuất hàng hóa, thực hiện phân phối từ kho chung của nhà nước… Thay đổi quan điểm này Lênin chỉ rõ: áp dụng chính sách kinh tế nhiều thành phần, vận dụng những quy luật của sản xuất hàng hóa: giá cả, tiền tệ, lợi nhuận… lấy khuyến khích vật chất làm động lực thúc đẩy người lao động. Xây dựng hợp tác xã như một hình thức kinh tế XHCN khẳng định vai trò to lớn của cách mạng văn hóa trong quá trình xây dựng nước Nga.
Thành lập, củng cố, đổi mới bộ máy Nhà nước. Kiện toàn pháp luật tạo điều kiện cho người lao động tham gia giám sát bộ máy, đấu tranh chống quan liêu hối lộ, thiết lập dân chủ vô sản thật sự - một nền dân chủ “gấp triệu lần so với dân chủ tư sản” mà tác phẩm cải tổ bộ dân chủ là tiêu biểu.  
Nếu Mác và Ph.Ăngghen là người có công sáng lập CNXH khoa học, biến CNXH từ không tưởng thành khoa học, thì V.I.Lênin là người có công lớn biến CNXH từ lý luận thành thực tiễn. Trong quá trình tồn tại của mình, CNXH khoa học ngay từ khi ra đời đã bị các lực lượng thù địch, bọn cơ hội, phi Mác – xít tấn công dưới nhiều hình thức hòng xóa bỏ làm mất đi tính khoa học, cách mạng của nó. Bên cạnh đó từ sai lầm đường lối, chủ quan duy ý chí của Đảng Cộng sản các nước Đông Âu và Liên Xô trước đây làm cho CNXH hiện thực từ một hệ thống trở thành “bị thoái trào, khủng hoảng” chỉ còn lại bốn nước. Tình hình đó đặt ra đối với Việt Nam chúng ta là: cần vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng XHCN vào nước ta phù hợp điều kiện tình hình nước ta như Hồ Chí Minh đã làm và lãnh đạo cách mạng nước ta làm cách mạng dân chủ rồi tiếp tục cách mạng không ngừng lên cách mạng XHCN năm 1945 – 1954 ở miền Bắc; từ sau 30.4.1975 trong cả nước và sự nghiệp đổi mới hơn 36 năm qua.

TS. Ngô Hoàng Anh - Ths. Lê Thị Nghệ
 

 
Bạn đã không sử dụng Site, Bấm vào đây để duy trì trạng thái đăng nhập. Thời gian chờ: 60 giây